ôi 25 tuổi có quan hệ với cô gái 16 tuổi 9 tháng . Khi quan hệ hai bên đều tự nguyện, tôi không đe dọa hay dùng vũ lực để cô ấy lệ thuộc mình. Bây giờ, cô ấy có thai nhưng gia đình cô ấy bắt bỏ thai. Tôi năm nay 25 tuổi có quan hệ với một cô gái 16 tuổi 9 tháng, hai bên đều tự nguyện
Mục lục
1. Các trường hợp quan hệ với trẻ em (từ 16 đến 18 tuổi) bị phạm tội
Trường hợp 1: Phạm tội hiếp dâm nếu có hành vi “Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của họ”. (Điều 141, Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 )
Như vậy, hành vi để xác định tội danh này là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được. Hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực là hành vi điển hình đối với tội hiếp dâm, bởi bản năng sinh học của đàn ông luôn mạnh mẽ hơn của phụ nữ nên việc dùng vũ lực để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân là yếu tố thường gặp.
Còn hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân được hiểu là người thực hiện hành vi giao cấu trong lúc nạn nhân không thể kháng cự vì không có sức lực và khả năng để kháng cự mặc dù họ có thể cảm nhận được sự nguy hiểm và không mong muốn sự việc này xảy ra.
Ví dụ: A (con trai) mời bạn gái B đi uống rượu mặc dù biết B không biết uống nhưng hứa nếu uống say sẽ đưa về nhà. Vì tin tưởng Bạn nên B đồng ý. Khi biết B đã say và không còn biết gì, A đã đưa B về nhà và thực hiện hành vi giao cấu. Trong lúc thực hiện hành vi B đã biết và van xin A buông tha nhưng Anh ta vẫn thực hiện hành vi đến cùng. Sau khi về nhà, B đã đến cơ quan công an trình báo về hành vi hiếp dâm của A. Như vậy, có thể thấy A đã lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân để tiến hành hành vi hiếp dâm trái với ý muốn của B.
Đối với tội danh này theo quy định của khoản 1 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 thì mức phạt đều quy định là hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Mức phạt cao nhất theo quy định tại khoản 4 Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015 khi phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
Trường hợp 2:Phạm tội cưỡng dâm nếu có hành vi “dùng thủ đoạn kiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu”. Hành vi này được quy định cụ thể trong Điều 113 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 143 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, mức phạt theo quy định của khoản 1, Điều 113 của bộ luật hình sự năm 1999 là từ 06 tháng đến 05 năm còn tại khoản 1 Điều 143, bộ luật hình sự năm 2015 lại tăng mức hình phạt đối với tội cưỡng dâm là từ 01 năm đến 05 năm. Hành vi cưỡng dâm ở cả hai bộ luật trên đều quy định mức phạt “Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
Khái niệm “người lệ thuộc mình” là một khái niệm mở có thể hiểu trong nhiều mối quan hệ có sự phụ thuộc nhất định về địa vị xã hội (Ví dụ: Lãnh đạo với nhân viên), trong quan hệ lao động (Chủ sử dụng lao động và người lao động), trong nhà trường (thầy giáo với học sinh)… sự lệ thuộc này phải kèm với thủ đoạn có thể chi phối đến quyết định của nạn nhân. Thủ đoạn trong các quan hệ cưỡng dâm thường rất đa dạng, chúng tôi nếu một vài thủ đoạn điển hình:
+ Ví dụ 1: A và B yêu nhau nhưng khi bạn gái (b) đòi chia tay A không đồng ý và đã dùng những hình ảnh, video nhậy cảm để đe dọa B nếu chia tay sẽ nói cho nhiều người (người thân, bạn bè, cơ quan…) của B. Và yêu cầu B quan hệ nếu không sẽ thực hiện thủ đoạn của mình. Như vậy, đây có thể là một thủ đoạn của tội cưỡng dâm.
+ Ví dụ 2: Thầy giáo tại một trường Đại học A, nhiều lần đe dọa đuổi học sinh B vì nhiều lý do khác nhau mà thầy biết được việc B có hành vi gian lận trong thi cử đầu vào chẳng hạn. Vì không muốn bị đuổi học hoặc hủy kết quả thi B miễn cưỡng làm theo lời thầy A. Vậy, thầy A có dấu hiệu phạm tội cưỡng dâm theo quy định của luật hình sự.
2. Các trường hợp quan hệ với trẻ em (từ 16 đến 18 tuổi) không phạm tội
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 hiện nay thì không thể truy tố trách nhiệm hình sự khi:
Thứ nhất, cả hai đều tự nguyện quan hệ, không bên nào ép buộc bên nào và đặc biệt quan trọng khi cô bạn gái đã trên 16 tuổi. Độ tuổi của bạn gái là yếu tố đặc biệt quan trọng để kết luận hành vi giao cấu tự nguyện có vi phạm pháp luật hình sự hay không. Ranh giới độ tuổi này được xác định cụ thể là từ 16 tuổi trở nên được hiểu là cô gái này đã qua sinh nhật lần thứ 16 và bước qua ngày hôm sau.
Ví du về xác định độ tuổi: Cô A sinh ngày 01/01/2000 thì đến sau 12h đêm 1 giây ngày 01/01/2016 cô A mới tròn 16 tuổi. Khi đó theo luật hình sự, cô A có đầy đủ khả năng nhận thức (trưởng thành về cả thể chất và tinh thần) cô ấy có quyền quyết định hành vi, cuộc sống của mình.
Thứ hai,chính vì quan hệ hoàn toàn tự nguyện nên cũng không phạm tội cưỡng dâm theo Điều 143 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Thứ ba, vì bạn gái đã tròn 16 tuổi 1 giây nên cũng không thể truy tố theo tội danh tội giao cấu với trẻ em, vì theo quy định tại Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Điều luật này đòi hỏi nạn nhân phải là nữ (hoặc nam) phải trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16. Tuy nhiên, cô bạn gái của anh đã trên 16 tuổi nên anh cũng không phạm tội theo quy định của điều này.
>> Bài viết liên quan: Quan hệ với trẻ Em từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi có phạm tội không?
3. Trách nhiệm dân sự khi có hành vi quan hệ với bạn gái (từ 16 đến 18 tuổi)
Mặc dù, trong Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 không có quy định nào về xử lý hình sự với hành vi quan hệ với người trên 16 tuổi một cách tự nguyện. Nghĩa là, nếu bạn quan hệ tình dục với bạn gái bạn mà không có hành vi cưỡng bức, sử dụng bạo lực thì không vi phạm pháp luật.
Vì bạn gái bạn là người chưa đủ 18 tuổi (là đối tượng chưa thành niên) theo pháp luật dân sự, cha mẹ cô gái đó là đại diện theo pháp luật, có quyền thay bạn gái bạn gửi đơn kiện ra Tòa án. Tuy nhiên, nếu chứng minh được không có hành vi cưỡng ép, bạn sẽ không bị xử lý hình sự nhưng nếu để ra hậu quả thì trách nhiệm dân sự là điều không thể tránh khỏi.
Một số hậu quả pháp lý điển hình có thể xảy ra nếu bạn không được trang bị các kiến thức cần thiết về sức khỏe sinh sản như:
+ Bạn gái có thai (khi cả hai hoặc một trong hai người) chưa đủ độ tuổi đăng ký kết hôn. Điều này phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của bạn đối với con của bạn cũng như các hệ lụy pháp lý khi cả hai chưa thực sự trưởng thành. Cha mẹ (người đại điện) theo quy định tại Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015 của cô gái có thể khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với Bạn.
+ Và rất nhiều hệ lụy pháp lý khác có thể ảnh hưởng tới tương lai phía trước của bạn.